Arecolin là một alkaloid gốc acid nicotinic được tìm thấy trong quả cau (Areca catechu),[1] ở mức 0,1-0,5%.[2] Nó là một chất lỏng không mùi, nhớt như dầu. Là methyl este của arecaidin, nó được Ernst Jahn cô lập lần đầu tiên năm 1888. Nó có thể mang lại cảm giác hưng phấn và thư giãn.
Tính chất hóa học
Arecolin là một base, và acid liên hợp của nó có pKa ~ 6,8.[3]
Arecolin là chất dễ bay hơi trong hơi nước, có thể trộn lẫn với phần lớn các dung môi hữu cơ và nước, nhưng có thể chiết ra khỏi nước bằng ete với sự có mặt của các muối hòa tan. Là một base, arecolin tạo thành muối với các acid. Các muối này kết tinh, nhưng thường bị chảy rữa: hydroclorua, arecolin•HCl, tạo thành các tinh thể hình kim nóng chảy ở 158 °C;[3] hydrobromua, arecolin•HBr, tạo thành các tinh thể lăng trụ thanh mảnh nóng chảy ở 177–179 °C từ rượu nóng; auriclorua, arecolin•HAuCl4, là một chất lỏng như dầu, nhưng platiniclorua, arecolin2•H2PtCl6 nóng chảy ở 176 °C, kết tinh từ nước thành các tinh thể hình hộp mặt thoi màu cam đỏ. Methiodua tạo thành các lăng trụ lướt nóng chảy ở 173-174 °C.
Khoa học hiện đại cho rằng nhai trầu cau có thể gây ung thư. Các nghiên cứu gợi ý rằng điều này có lẽ một phần là do arecolin, mặc dù cũng có thể là do các thành phần khác có trong quả cau, với một số là các tiền chất tạo ra các nitrosamin hình thành trong miệng khi nhai.[9]
Do các tính chất kích hoạt muscarin và nicotin của nó, arecolin được chứng minh là có khả năng cải thiện khả năng học tập của những tình nguyện viên mạnh khỏe. Do một trong các dấu hiệu xác nhận bệnh Alzheimer là suy giảm nhận thức, nên arecolin từng được đề xuất như là một liệu pháp điều trị để làm chậm quá trình này và trên thực tế arecolin truyền tĩnh mạch thể hiện sự cải thiện trí nhớ về lời nói và không gian ở mức vừa phải ở các bệnh nhân Alzheimer, mặc dù các tính chất có thể gây ung thư của arecolin,[15] làm cho nó không phải là dược phẩm được lựa chọn đầu tiên cho bệnh thoái hóa này.[16]
Arecolin cũng từng được sử dụng trong thú y như là một loại thuốc trị giun (thuốc chống lại giun ký sinh).[17][18]
Khi dùng làm dược phẩm, nó luôn ở dạng muối hydrobromua hay hydroclorua. Dạng muối khó hấp thụ là arecolinacetarsol (C 8H 13NO− 2C 8H 10AsNO 5) cũng đã từng được sử dụng.[19]
^ abGhelardini C., Galeotti N., Lelli C., Bartolini A. (2001). “Arecoline M1 receptor activation is a requirement for arecoline analgesia”. Farmaco. 56 (5–7): 383–385. doi:10.1016/S0014-827X(01)01091-6. hdl:2158/327019. PMID11482763.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
^Trang 243 trong Baron Ernst von Bibra, 1995. Plant intoxicant: A classic text on the use of mind-altering plants. Healing Arts Press, Rochester, Vermont. ISBN 0892814985. Hedwig Schleiffer dịch sang tiếng Anh từ sách Die narkotischen Genußmittel und der Mensch của Wilhelm Schmid, Nuremburg, 1855.
^Peter Nuhn, 1997. Naturstoffchemie: Mikrobielle, pflanzliche, und tierische Naturstoffe. Hirzel Wissenschaftliche Verlagsgesellschaft, Stuttgart, ấn bản mới lần 3, 766 trang, ISBN 3777606138, ISBN 9783777606132.
^K. C. Raffaele, A. Berardi, P. P. Morris, S. Asthana, J. V. Haxby, M. B. Schapiro, S. I. Rapoport, T. T. Soncrant, 1991. Effects of acute infusion of the muscarinic cholinergic agonist arecoline on verbal memory and visuo-spatial function in dementia of the Alzheimer type. Trong: Progress in neuro-psychopharmacology & biological psychiatry. 15(5): 643–648, PMID 1956992.
^Yang Y. R., Chang K. C., Chen C. L., Chiu T. H. (2000). “Arecoline excites rat locus coeruleus neurons by activating the M2-muscarinic receptor”. Chin. J. Physiol. 43 (1): 23–28. PMID10857465.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
^Xie D. P., Chen L. B., Liu C. Y., Zhang C. L., Liu K. J., Wang P. S. (2004). “Arecoline excites the colonic smooth muscle motility via M3 receptor in rabbits”. Chin. J. Physiol. 47 (2): 89–94. PMID15481791.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
^Saikia J. R., Schneeweiss F. H., Sharan R. N. (1999). “Arecoline-induced changes of poly-ADP-ribosylation of cellular proteins and its influence on chromatin organization”. Cancer Letters. 139 (1): 59–65. doi:10.1016/S0304-3835(99)00008-7. PMID10408909.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
^Christie J. E., Shering A., Ferguson J. (1981). “Physostigmine and arecoline: effects of intravenous infusions in Alzheimer's presenile dementia”. British Journal of Psychiatry. 138 (1): 46–50. doi:10.1192/bjp.138.1.46. PMID7023592.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
^W. Löscher, F.R. Ungemach & R. Kroker Pharmakotherapie bei Haus und Nutztieren trong W. Löscher, H. Potschka, A. Richter (chủ biên). Ấn bản lần thứ 9, cập nhật và mở rộng. 736 trang. Enke bei Thieme (Verlag). 2014. trang 384. ISBN 9783830412502.