*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia, chính xác tính đến ngày 23 tháng 5 năm 2024 ‡ Số trận ra sân và số bàn thắng ở đội tuyển quốc gia, chính xác tính đến ngày 14 tháng 7 năm 2024
Sau khi gia nhập Athletic Bilbao năm 2010 ở tuổi 16, anh chỉ trở thành cầu thủ người Pháp thứ hai — sau Bixente Lizarazu — thi đấu cho câu lạc bộ[4] và đã ra sân thi đấu 220 trận. Vào tháng 1 năm 2018, anh đã ký hợp đồng với Manchester City.[5] Anh là một phần của đội bóng giành cú ăn ba quốc nội đầu tiên của bóng đá nam ở Anh vào năm 2019.
Sinh ra ở Pháp, anh có 51 lần ra sân cho Pháp tại cấp độ trẻ, tuy vậy anh vẫn chưa được ra sân tại đội tuyển quốc gia nước này. Vào tháng 5 năm 2021, sau khi nhập quốc tịch Tây Ban Nha và được chấp thuận từ FIFA để chuyển đội tuyển quốc gia,[6] Laporte được gọi lên đội hình của Tây Ban Nha tham dự UEFA Euro 2020.[7]
Tuổi thơ
Laporte[8] sinh ra ở Agen, Aquitaine. Anh có gốc gác Basque từ cụ của mình.[9] Anh bắt đầu chơi bóng đá và bóng bầu dục khi mới 5 tuổi, và bắt đầu phát triển kỹ năng tại học viện bóng đá của Agen.[10][11][12] Năm 2009, anh được mời gia nhập Athletic Bilbao qua các tuyển trạch viên; theo thỏa thuận với câu lạc bộ, anh đã dành một mùa giải với Aviron Bayonnais FC,[12][13] vì anh còn quá trẻ để chuyển ra ngoài nước Pháp vào thời điểm đó.
^Beltrán, Javi (25 tháng 7 năm 2013). “Laporte: "Tengo sangre vasca por parte de mis bisabuelos"” [Laporte: "I have Basque blood through my great-grandparents"] (bằng tiếng Tây Ban Nha). El Desmarque. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 7 năm 2016. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2016.
^Karouri, Khaled (4 tháng 11 năm 2012). “Entretien avec... Aymeric Laporte” [Interview with... Aymeric Laporte]. Foot Mercato (bằng tiếng Pháp). Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2013.
^“Aymeric Laporte, un Basque parmi les Basques” [Aymeric Laporte, a Basque among the Basques]. Only Football (bằng tiếng Pháp). 14 tháng 5 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2017.