C. tominiensis sống gần các rạn san hô ở khu vực sườn dốc của rạn san hô viền bờ, nơi không có sóng lớn, ở độ sâu khoảng từ 3 đến 45 m[1], nhưng thường được quan sát ở độ sâu khoảng 25 m trở lại[3].
Mô tả
Chiều dài cơ thể tối đa được ghi nhận ở C. tominiensis là 16 cm[3]. Có một mảnh xương nhọn chĩa ra ở mỗi bên cuống đuôi, tạo thành ngạnh sắc. Cơ thể hình bầu dục thuôn dài, có màu nâu. Vây lưng và vây hậu môn có góc nhọn, phần vây sau có màu cam sáng nổi bật[4]. Có 2 đốm đen ở phần tiếp giáp giữa cuống đuôi với vây lưng và vây hậu môn[4]. Vây đuôi có màu trắng, chẻ đôi hình chữ Y ở cá con và lõm sâu tạo thành hình lưỡi liềm ở cá trưởng thành[3]. Rìa môi có những đường răng cưa rất nhỏ[3]. Có đôm trắng ở trước mắt.
Số gai ở vây lưng: 8; Số tia vây ở vây lưng: 24 - 25; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 22 - 23; Số tia vây ở vây ngực: 15 - 16[4].
Sinh thái và hành vi
C. tominiensis có thể sống đơn độc hoặc theo đàn[3]. Thức ăn của các loài Ctenochaetus chủ yếu là các loại tảo và vụn hữu cơ. Chúng dùng răng của mình để đẩy cát đá trên nền đáy và xúc những mảnh tảo vụn vào miệng[5]. Các loài Ctenochaetus đều có chung một đặc điểm là dạ dày có thành dày[5].
^C. Scharpf; K. J. Lazara (2020). “Order ACANTHURIFORMES (part 2)”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2020.
^ abcdefFroese Rainer, và Daniel Pauly (chủ biên) (2020). Ctenochaetus tominiensis trong FishBase. Phiên bản tháng 2 2020.
^ abJ. E. Randall; K. D. Clements (2001). “Second revision of the surgeonfish genus Ctenochaetus (Perciformes: Acanthuridae), with descriptions of two new species”. Indo-Pacific Fishes. 32.