Lớp tàu khu trục Q và R
Lớp tàu khu trục Q và R là một lớp bao gồm mười sáu tàu khu trục thuộc Chương trình Khẩn cấp Chiến tranh được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc đặt hàng năm 1940 như những Chi hạm đội Khẩn cấp 3 và 4. Chúng đã phục vụ như những tàu hộ tống vận tải trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Ba chiếc lớp Q được chuyển cho Hải quân Hoàng gia Australia sau khi hoàn tất, cùng với hai chiếc khác được chuyển giao vào năm 1945. Roebuck có đặc điểm nổi bật do bị hạ thủy sớm trong một cuộc không kích xuống xưởng tàu của hãng Scotts tại Greenock; lườn tàu hoàn thành một phần của nó bị chìm một phần tại xưởng tàu trong 9 tháng trước khi được trục vớt và hoàn tất.[1] Sau chiến tranh, sáu chiếc trong số những chiếc sống sót đã được cải biến thành Tàu frigate Kiểu 15 dùng trong Chiến tranh chống tàu ngầm. Thiết kếLớp Q và R là sự lặp lại của lớp O và P dẫn trước, nhưng quay lại một lườn tàu lớn hơn kiểu lớp J, K và N đáp ứng sự gia tăng trọng lượng bên trên không tránh khỏi. Vì chúng có ít khẩu pháo chính hơn so với những chiếc lớp J, K và N, một số chỗ hầm đạn được thay thế bằng các thùng nhiên liệu,[1] cho phép chúng có tầm hoạt động khoảng 4.675 hải lý (8.658 km) ở tốc độ 20 hải lý trên giờ (37 km/h) so với tầm xa 3.700 nmi (6.900 km) của lớp dẫn trước. Giống như những chiếc lớp O và P, chúng được trang bị với những vũ khí sẵn có: pháo 4,7 in (120 mm) trên bệ nòng đơn vốn chỉ cho phép nâng đến góc 40°; do đó về mặt lý thuyết không thể so sánh được với nhiều lớp tàu khu trục đương thời của hải quân các nước khác. Các con tàu này sử dụng máy tính kiểm soát hỏa lực góc cao loại Đồng hồ Định thời Kíp nổ.[2] Trên lớp Q, tháp pháo “Y” có thể được tháo dỡ, lấy chỗ để mang thêm mìn sâu và máy phóng mìn hoặc thiết bị quét mìn. Lớp R là sự lặp lại của lớp Q, ngoại trừ phòng nghỉ ngơi của sĩ quan được chuyển từ vị trí truyền thống bên mạn phải phía đuôi tàu đến vị trí giữa tàu thuận tiện để di chuyển hơn.[1] Điều này đã khiến phải bố trí lại vị trí quan sát viên trong hoàn cảnh thời tiết khắc nghiệt. Sàn chính của tàu khu trục hoàn toàn bị ướt nước khi biển động, và các lối đi không được bố trí nối liều sàn trước và sàn sau cho đến khi lớp V được đặt hàng vào năm 1941. Trên những chiếc còn sống sót, pháo phòng không Oerlikon 20 mm nòng đơn bên cánh cầu tàu sau này được thay thế bằng bệ Mark V nòng đôi vận hành bằng thủy lực. Rotherham, Raider và Rocket sau đó có các khẩu Oerlikon và đèn pha tìm kiếm giữa tàu được thay thế bằng bốn pháo phòng không Bofors 40 mm nòng đơn; đèn pha tìm kiếm sau đó được trang bị lại bằng cách bỏ bớt số mìn sâu mang theo. Raider chỉ được bổ sung một cặp Oerlikon 20 mm nòng đôi Mark V ở sàn sau. Radar cảnh báo không trung Kiểu 290 được thay thế bằng Kiểu 291 và sau đó bằng Kiểu 293; radar bước sóng centimetre Kiểu 272 sau đó được bổ sung trên một bệ giữa các ông phóng ngư lôi trên Rotherham, Racehorse, Rapid, Raider và Roebuck, hay trên cột ăn-ten trước trên những chiếc khác. Racehorse, Raider, Rapid, Redoubt và Relentless được bổ sung máy định vị cao tần Huff-Duff trên cột ăn-ten chính dạng lưới. Những chiếc trong lớp
Xem thêm
Tham khảoChú thích
Thư mục
Liên kết ngoàiWikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Lớp tàu khu trục Q và R.
|