Minh Nhân Tông (chữ Hán: 明仁宗, 16 tháng 8, 1378 - 29 tháng 5, 1425), là vị hoàng đế thứ tư của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông chỉ cai trị trong một thời gian ngắn, từ năm 1424 đến 1425. Minh Nhân Tông thường được gọi là Hồng Hi Đế (洪熙) bởi ông chỉ sử dụng duy nhất một niên hiệu Hồng Hi trong thời gian tại vị.
Mặc dù Minh Nhân Tông Hồng Hi Đế chỉ cai trị ngắn ngủi, nhưng suốt thời gian đó ông đã cố gắng cải cách đất nước, củng cố chính quyền, giúp cho triều đình Đại Minh thêm vững chắc. Điều đó đã củng cố được quyền lực cho con trai ông khi lên kế vị, đó là Minh Tuyên Tông. Sử sách gọi thời kỳ của ông và con trai ông là Nhân Tuyên chi trị (仁宣之治).
Thời kỳ thế tử và thái tử
Nhân Tông Hồng Hi hoàng đế có tên thật là Chu Cao Sí (朱高熾) Hay Chu Cao Xí (朱高熾), sinh vào ngày 16 tháng 8 năm 1378, đích trưởng tử của Minh Thành Tổ Chu Đệ và Nhân Hiếu Văn hoàng hậu Từ thị, con gái của đại thần Từ Đạt. Từ nhỏ, Chu Cao Sí đã được Minh Thành Tổ Chu Đệ đào tạo thành một con người sùng Nho giáo. Trong thời gian khi Thành Tổ còn làm Yên vương (燕王), Chu Cao Sí được phong làm Yên thế tử (燕世子). Lúc trẻ ông có thân hình to béo và điều đó dường như ảnh hưởng đến sức khỏe của ông, đồng thời khiến ông mất đi cảm tình của phụ vương. Chu Cao Sí không quan tâm đến các vấn đề quân sự nhưng ông được cho là có khả năng trong việc bắn cung.
Năm 1402, Yên vương Chu Đệ đem quân đánh triều đình nhà Minh do Minh Huệ Đế Chu Doãn Văn cai trị, sử gọi đó là Loạn Tĩnh Nan. Lúc Yên vương dấy binh, Cao Sí ở nhà lo việc trấn thủ Bắc Bình, lập được đại công to lớn. Sau khi Thành Tổ lên ngôi, liền phong Chu Cao Sí làm Hoàng thái tử.
Khi Thành Tổ Bắc phạt tàn dư quân ngũ Mông Cổ, Thái tử Chu Cao Sí cũng lãnh việc giám quốc, thực tế thay quyền lo liệu quốc gia đại sự, giúp Thành Tổ phân ưu để an tâm bắc phạt.
Thời kỳ đế vương
Năm 1424, Minh Thành Tổ Chu Đệ băng hà, Thái tử Chu Cao Sí lên ngôi. Ngay khi lên ngôi vào tháng 9, năm 1424, ông lấy niên hiệu Hồng Hi (洪熙).
Ngay khi vừa lên ngôi, Hồng Hi Đế liền hủy bỏ những cuộc thám hiểm biển của Trịnh Hòa và bãi bỏ biên giới buôn bán chè và ngựa cũng như cho vàng và ngọc trai đến Vân Nam và An Nam. Ông phục lại danh dự của những Nho quan bị nhục trước đây, tổ chức lại sự quản trị, cho những cận thần của mình nắm quyền then chốt trong triều. Ông cho những học sĩ ở Hàn lâm viện làm thư ký chính cho mình, sai họ phá bỏ đi những chính sách quân phiệt từ đời phụ hoàng của ông là Minh Thành Tổ, thay vào đó là chính sách dân sự. Ông ra sức cải thiện tài chính đất nước, giảm thuế má lao dịch, vàng và bạc. Ông cho một chỉ định ủy nhiệm để điều tra việc thuế má. Những nơi nào xảy ra thiên tai, hoạn nạn, thì kíp cho các quan trong vùng ra sức cứu tế dân chúng ở những nơi có nạn.
Trong thời gian ở ngôi, Hồng Hi đế đã có ý định dời đô về lại Nam Kinh. Tuy nhiên, ông đã đột ngột bệnh nặng và qua đời không lâu sau đó, có lẽ là do tái phát bệnh tim, nên việc này không thể thực hiện. Ngày 29 tháng 5 năm 1425, Hồng Hi Đế băng hà, thọ 46 tuổi. Miếu hiệu của ông là Nhân Tông (仁宗), thụy hiệu là Kính Thiên Thể Đạo Thuần Thành Chí Đức Hoằng Văn Khâm Vũ Chương Thánh Đạt Hiếu Chiêu hoàng đế (敬天體道純誠至德弘文欽武章聖達孝昭皇帝). Được an táng ở Hiến lăng (献陵).
Con trai ông là thái tử Chu Chiêm Cơ đã được kế vị, tức vua Minh Tuyên Tông. Mặc dù thời gian tại vị ngắn, Hồng Hi đế vẫn được ghi nhận với những chính sách ổn định xã hội, cải cách đất nước, củng cố chính quyền và các chính sách tự do của ông đã được con trai ông tiếp tục.
Thân mẫu: Nhân Hiếu Văn hoàng hậu Từ thị (仁孝文皇后徐氏, 1362 - 1407), người Hào Châu, là con gái của Khai quốc đại công thần Từ Đạt, một trong 18 anh em kết nghĩa của Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương khi còn hàn vi. Mẹ bà là Tạ phu nhân, con gái thứ của Tạ Tái Hưng (謝再興).
Cung Túc Quý phi Quách thị (恭肅貴妃郭氏, ? - 1425), người Hào Châu, An Huy, cháu gái công thần Doanh Quốc công Quách Anh (郭英), cha là Vũ Định hầuQuách Minh (郭铭). Gia thế hiển hách, bà vào hầu Nhân Tông khi còn ở tiềm để, độc sủng; điều này khiến Trương hoàng hậu ghen ghét. Bà bị bắt tuẫn táng theo Nhân Tông dù bà đã sinh cho ông nhiều vị Hoàng tử và gia thế hiển hách. Theo giả thiết có thể Trương Hoàng hậu đã bức ép bà. Sinh ra Đằng Hoài vương Chu Chiêm Khải, Lương Trang vương Chu Chiêm Vỹ và Vệ Cung vương Chu Chiêm Diên
Trinh Huệ Thục phi Vương thị (貞惠淑妃王氏, ? - 1425), chị em ruột với Huệ An Lệ phi, sinh được một công chúa, không rõ là ai, một trong 5 phi tử bị tuẫn táng
Khi Tuyên Tông đi bình định Cao Húc chi loạn, cùng Chu Chiêm Thiện trấn thủ Bắc Kinh Phủ đệ của ông được lập tại Kinh sư, vợ là Trịnh Tĩnh vương phi Tần Tuyết Di (郑靖王妃秦雪怡), có một con trai
Lập phủ đệ ở Quảng Đông, sau dời đến Thượng Nhiêu Vợ là Hoài Tĩnh vương phi Tiêu thị (淮靖王妃萧氏), con gái của Binh mã chỉ huy Tiêu Trung (萧忠) Có ba con trai, Trưởng tử Hoài Khang vươngChu Kỳ Thuyên (淮康王朱祁铨)
Phủ đệ ở An Lục Châu (Chung Trường, Hồ Bắc ngày nay), là đất cũ của Dĩnh Tĩnh vươngChu Đống (朱栋), con trai thứ của Minh Thái Tổ Thê thiếp: Vương phi Kỷ thị (王妃紀氏), con gái của Kỷ Đạm (紀詹), mất sớm; Vương phi Ngụy thị (王妃魏氏), con gái của Nguỵ Hanh (魏亨); Tiểu thiếp Trương thị (张氏) Không có con trai nên mất tước, chỉ có hai người con gái là Tân Ninh Quận chúa (新宁郡主) và Ninh Viễn Quận chúa (宁远郡主)
Từ nhỏ đã bệnh tật ốm yếu nên không được phong vương, qua đời mới truy thuỵ là Vệ Cung vương (衛恭王) Không con cái, vợ là Vương phi Dương thị (王妃杨氏) bị tuẫn táng