Share to: share facebook share twitter share wa share telegram print page

Naso hexacanthus

Naso hexacanthus
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Acanthuriformes
Họ (familia)Acanthuridae
Chi (genus)Naso
Loài (species)N. hexacanthus
Danh pháp hai phần
Naso hexacanthus
(Bleeker, 1855)
Danh pháp đồng nghĩa
  • Priodon hexacanthus Bleeker, 1855
  • Naseus vomer Klunzinger, 1871
  • Naso vomer (Klunzinger, 1871)
  • Naso thorpei Smith, 1966

Naso hexacanthus là một loài cá biển thuộc chi Naso trong họ Cá đuôi gai. Loài cá này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1855.

Từ nguyên

Từ định danh của loài cá này, hexacanthus, trong tiếng Latinh có nghĩa là "sáu gai", ám chỉ 6 tia gai trên vây lưng của chúng[2].

Phạm vi phân bố và môi trường sống

N. hexacanthus có phạm vi phân bố rộng khắp vùng biển Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Từ Biển Đỏ và vùng biển phía nam bán đảo Ả Rập, loài cá này được tìm thấy dọc theo vùng bờ biển Đông Phi, bao gồm Madagascar và những bãi cạn, quần đảo xung quanh, kể cả Maldives, Chagos, đảo Giáng Sinhquần đảo Cocos (Keeling)Ấn Độ Dương[3]; từ biển Andaman, N. hexacanthus xuất hiện trải rộng khắp vùng biển các nước Đông Nam Á, Papua New Guinea và hầu hết các đảo quốc thuộc châu Đại Dương (giới hạn ở phía đông đến quần đảo Marquisesđảo Ducie); phía bắc trải dài đến vùng biển phía nam Nhật Bảnquần đảo Hawaii; phía nam đến rạn san hô Great Barrierđảo Lord Howe[1][4].

N. hexacanthus sống gần những rạn san hôđá ngầm ở độ sâu khoảng từ 6 đến 229 m[1].

Mô tả

Một nhóm N. hexacanthus

Chiều dài cơ thể tối đa được ghi nhận ở N. hexacanthus là 75 cm, nhưng thường được quan sát với chiều dài phổ biến là 50 cm[4]. Cơ thể hình bầu dục thuôn dài, có màu nâu đến màu lam xám, chuyển sang màu vàng nhạt ở phần bụng và ngực (lan sang vây hậu môn và vây bụng). N. hexacanthus có thể nhanh chóng chuyển sang màu xanh lam nhạt trên toàn cơ thể[5]. Cá đực mùa giao phối sẽ xuất hiện một khoảng màu lam nhạt trên đỉnh đầu và ở phần thân trước bên trên, cũng như nhiều sọc dọc cùng màu ở thân trước[5].

N. hexacanthus không có sừng hay bướu trước trán. Như các loài Naso khác, N. hexacanthus có 2 phiến xương nhọn chĩa ra ở mỗi bên cuống đuôi, tạo thành ngạnh rất sắc[5]. Chúng có vạch màu nâu sẫm trên má và nắp mang[5], là điểm phân biệt với Naso caeruleacaudaNaso caesius[6]. Vây đuôi màu xanh lam với dải đen ở rìa[6]. Vây đuôi lõm vào trong ở cá con, và cụt ở cá trưởng thành[5]. Lưỡi của N. hexacanthusmàu đen khi đạt chiều dài ~25 cm hoặc hơn[5].

Số gai ở vây lưng: 6; Số tia vây ở vây lưng: 27 - 29; Số gai ở vây hậu môn: 2; Số tia vây ở vây hậu môn: 27 - 30; Số tia vây ở vây ngực: 17 - 18; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia vây ở vây bụng: 3[5].

Sinh thái

Không như hầu hết các loài Naso khác, N. hexacanthus ăn các loài động vật phù du khi trưởng thành[7], bao gồm như ấu trùng của loài giáp xác, các loài thuộc Chaetognathaphân ngành Sống đuôi[1]. Chúng chỉ ăn tảo đến năm 2 tuổi[1]. Chúng kiếm ăn vào ban ngày, và thường sống thành đàn lớn[4].

Tuổi thọ tối đa ở N. brachycentron là 31 năm, được ghi nhận tại rạn san hô Great Barrier[8].

Tham khảo

  1. ^ a b c d e Choat, J.H.; McIlwain, J.; Abesamis, R.; Clements, K.D.; Myers, R.; Nanola, C.; Rocha, L.A.; Russell, B.; Stockwell, B. (2012). Naso hexacanthus. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2012: e.T178002A1517273. doi:10.2305/IUCN.UK.2012.RLTS.T178002A1517273.en. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2021.
  2. ^ C. Scharpf; K. J. Lazara (2020). “Order ACANTHURIFORMES (part 2)”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2020.
  3. ^ “Sleek Unicorn, Naso hexacanthus (Bleeker 1855)”. Fishes of Australia. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2020.
  4. ^ a b c Froese Rainer, và Daniel Pauly (chủ biên) (2020). Naso hexacanthus trong FishBase. Phiên bản tháng 2 2020.
  5. ^ a b c d e f g John E. Randall; Gerald R. Allen; Roger C. Steene (1997). The Fishes of the Great Barrier Reef and Coral Sea. Nhà xuất bản Đại học Hawaii. tr. 430. ISBN 978-0824818951.
  6. ^ a b Naso hexacanthus Acanthuridae”. Reef Life Survey. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2020.
  7. ^ Choat & Clements, sđd, tr.391-393
  8. ^ Choat & Robertson, sđd, tr.67

Trích dẫn

Kembali kehalaman sebelumnya