N. hexacanthus sống gần những rạn san hô và đá ngầm ở độ sâu khoảng từ 6 đến 229 m[1].
Mô tả
Chiều dài cơ thể tối đa được ghi nhận ở N. hexacanthus là 75 cm, nhưng thường được quan sát với chiều dài phổ biến là 50 cm[4]. Cơ thể hình bầu dục thuôn dài, có màu nâu đến màu lam xám, chuyển sang màu vàng nhạt ở phần bụng và ngực (lan sang vây hậu môn và vây bụng). N. hexacanthus có thể nhanh chóng chuyển sang màu xanh lam nhạt trên toàn cơ thể[5]. Cá đực mùa giao phối sẽ xuất hiện một khoảng màu lam nhạt trên đỉnh đầu và ở phần thân trước bên trên, cũng như nhiều sọc dọc cùng màu ở thân trước[5].
N. hexacanthus không có sừng hay bướu trước trán. Như các loài Naso khác, N. hexacanthus có 2 phiến xương nhọn chĩa ra ở mỗi bên cuống đuôi, tạo thành ngạnh rất sắc[5]. Chúng có vạch màu nâu sẫm trên má và nắp mang[5], là điểm phân biệt với Naso caeruleacauda và Naso caesius[6]. Vây đuôi màu xanh lam với dải đen ở rìa[6]. Vây đuôi lõm vào trong ở cá con, và cụt ở cá trưởng thành[5]. Lưỡi của N. hexacanthus có màu đen khi đạt chiều dài ~25 cm hoặc hơn[5].
Số gai ở vây lưng: 6; Số tia vây ở vây lưng: 27 - 29; Số gai ở vây hậu môn: 2; Số tia vây ở vây hậu môn: 27 - 30; Số tia vây ở vây ngực: 17 - 18; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia vây ở vây bụng: 3[5].
^C. Scharpf; K. J. Lazara (2020). “Order ACANTHURIFORMES (part 2)”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2020.