Nguyễn Thị Ngọc Vinh
Nguyễn Thị Ngọc Vinh (chữ Hán: 阮氏玉榮, 1724 - 13 tháng 1, 1764), còn có tên khác là Nguyễn Thị Bản, là Chính phi của chúa Nghị Tổ Ân vương Trịnh Doanh, mẹ đích của chúa Trịnh Sâm dưới thời Lê Trung Hưng trong lịch sử Việt Nam. Thân thếChính phi Nguyễn Thị Ngọc Vinh xuất thân từ gia tộc Nguyễn Mậu, thủy tổ là Nguyễn Mậu Nghi, công thần trong thời Trung Hưng của nhà Lê. Phụ thân của bà là ông Nguyễn Mậu Du, về sau được truy phong là Luân Trung công và ban cho họ Trịnh. Nguyên quán của bà ở xã Thạnh Mỹ, huyện Lỗi Dương, nay thuộc tỉnh Thanh Hóa. Bà sinh ngày 13 tháng 1 âm lịch năm Giáp Thìn (1724). Từ thuở nhỏ đã được theo học các môn cầm kỳ thi họa, rất giỏi thơ phú và có sở trường làm thơ Quốc âm thể lục bát.[1] Năm 17 tuổi (1740) bà được tiến vào phủ Chúa làm Cung tần.[1] Chúa Trịnh thấy bà xinh đẹp lại làm thơ hay nên rất sủng ái, thắc phong làm Chính cung Vương phi và yêu quý như vàng, nên người ta hay gọi là Đức Bà Vàng. Tôn phong là Trang Từ Thục Hành Khiêm Nhu Cung Ý Bảo Dực Sùng Đức Địch Triết Hoằng Hưu Chính phi. Bà có với Chúa một người con trai là Mẫn Tuệ công Trịnh Nhuận (mất sớm) [2] và một người con gái là Tiên Dung quận chúa Trịnh Thị Ngọc Nhuận,[3][4], tục gọi là Bà Chúa Đỏ.[5] Trong khi người con kế tự của Chúa là Trịnh Sâm do bà Hoa dung họ Nguyễn Đình sinh ra.[2] Tương truyền bà phi thông thạo chữ Hán lại giỏi quốc âm (chữ Nôm), khách làng văn không mấy ai không biết tiếng. Nhưng tác phẩm của Vương phi không phổ cập đến đại chúng nên sau khi nhà Trịnh bị diệt các tác phẩm của bà đều bị thất lạc. Từ khi Vương phi được đắc sủng với nhà chúa, phụ thân của bà là ông Nguyễn Mậu Du cũng nhanh chóng thăng quan tấn tước. Từ Lĩnh quân trung tiệp dần thăng Đại đô đốc, Đại tư mã, Đại tư đồ, tước Luân Trung công (phong ngay khi còn sống), lại ban cho Vương tính gọi là Trịnh Du. Do chức Quốc lão về hưu rồi lại được gọi về làm Chưởng phủ sự; lúc mất (1765) tặng là Khiêm công, tên thụy Trung Hậu và gia phong phúc thần.[6] Hành trạngCan dự kết quả khoa cửVì được sự sủng ái của nhà Chúa, bà Chính phi Nguyễn Mậu có can dự vào công việc triều chính, thậm chí có hành vi tư túi cho người thân trong những kỳ thi cử. Sách Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ kể lại sự tích khoa thi năm Giáp Tuất (1754), khi đó bà Chính phi có người em là Nguyễn Mậu Dĩnh, vốn không mấy thực tài, cũng tham gia vào kì thi ấy. Bà đã mua chuộc các quan chấm thi và mật bảo kẻ lại phòng chuyên làm nhiệm vụ trong trường thi tìm quyển của Mậu Dĩnh đánh dấu để quan chấm thi biết. Vì thế Mậu Dĩnh vượt qua được cả 3 kỳ khảo hạch đầu trong tứ trường. Nhưng đến kỳ thứ 4, thì bài của Dĩnh không hiểu sao đã bị đánh rớt. Chính phi bèn xin với Chúa cho lấy những quyển văn chương uẩn súc trong các bài thi hỏng đem tiến trình, và cho mình rút lấy một quyển lấy đỗ với lý do cho rộng đường cầu lấy nhân tài. Chúa vẫn theo lời bà phi, đem những bài đánh hỏng cho bà rút. Bài của Mậu Dĩnh được dặn là đánh dấu đặc biệt, nhưng người lại phòng do hoang mang chỉ nhớ tên Dĩnh, vì thế đánh nhầm vào một sĩ tử là Võ Huy Dĩnh, kết quả Huy Dĩnh là người được trúng cách. Tác giả Phạm Đình Hổ cho rằng đây là chuyện "học tài thi phận", có khi thi đỗ cũng là nhờ may mắn.[7] Khơi mào mâu thuẫn cung đìnhQuận chúa Ngọc Nhuận rất được Chúa thương yêu, coi như minh châu trên tay, dân gian vì thế hay gọi quận chúa là Bà chúa Đỏ. Chính phi nhân đó xin gả Quận chúa cho Thái tử Lê Duy Vĩ, con trưởng của vua Lê Hiển Tông, để ngày sau làm Hoàng hậu.[4] Chúa Trịnh bằng lòng cho. Tháng 9 năm 1759, Chúa gả Tiên Dung quận chúa cho Thái tử Vĩ,[8] nhưng đến tháng 7 năm sau thì bà chúa Đỏ lại qua đời.[3] Thái tử Vĩ tư chất thông minh, lại ngầm có ý khôi phục quyền bính cho nhà vua; điều này khiến Trịnh Sâm mang lòng ghen ghét. Một hôm Thái tử vào phủ Chúa, Trịnh Doanh mời ăn cơm cùng với Thế tử Trịnh Sâm, cho con trai và con rể cùng ngồi vào một mâm. Chính phi ngăn lại, bảo rằng
Bèn bắt Sâm ra ăn ở chỗ khác. Sâm giận, bẻ đũa không ăn, rồi thề rằng ngày sau với Thái tử tất một người sống, một người chết. Hậu quả của sự việc là khi Trịnh Sâm lên ngôi Chúa và vu oan để phế truất rồi bức tử Thái tử Vĩ vào năm 1769. Sự kiện đánh ghen và bài thơ giải oanSau này khi tuổi tác đã lớn, bà phi ngày càng sợ đánh mất quyền thế của mình, vì thế bà càng ra sức ngăn cấm các cung tần tiếp kiến nhà Chúa. Càng ngày bà càng cậy quyền không kiêng sợ gì nữa, đến đỉnh điểm là sự kiện tháng Chạp năm Lê Cảnh Hưng thứ 20 (1760). Khi đó Chúa Trịnh Doanh sai viên Hoàng môn vời cung tần là Thị Mỹ đến hầu tẩm, bà phi trông thấy đã nổi cơn ghen và cầm hộp trầu bằng vàng ném vào Thị Mỹ. Không may lại ném trúng vào người Chúa. Chúa Trịnh giận lắm, quan A bảo tên là Phiêu công trông thấy như vậy, lấy lụa đỏ bao tay mình, rồi dắt bà phi đuổi ra ngoài cửa phủ, giam tại bản dinh chợ huyện, ngoài thành Thăng Long, và những khí vật ở trong tẩm điện, đều sai đào đất sâu ba thước mà lấp đi. Ở trong lãnh cung, bà phi hối hận, bèn làm hai bài tự tình vãn bằng quốc âm, lời lẽ rất hay, đưa vào cho chúa, mong chúa cảm ngộ. Chúa xem rồi, sinh lòng cảm động một cách lạ thường, rồi sai xe Loan ra rước bà về. Hai bài thơ ấy như sau[9]
Lại có một bài thơ rằng:
Bài ca Nôm này được đời sau truyền tụng rất nhiều, do vậy đã được chép vào sách Kim văn loại tụ. Hiện nay vẫn còn một bản chép lưu giữ ở Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm.[10] Hậu sựNgày 13 tháng 1 năm 1764, Chính phi Nguyễn Thị Ngọc Vinh mất, hưởng dương 40 tuổi, được ban thụy hiệu là Trang Trinh Chính phi. Chúa Trịnh Doanh vô cùng thuơng xót.[11] Đến khi Chúa qua đời vào 3 năm sau (1767) có di ngôn lại muốn cùng bà Chính phi chôn cùng một huyệt. Khi Chúa mất, quan tài quàn ở cung Tây Hồ, rồi xong việc tang lễ đến tháng 4 năm 1768 thì đưa xuống thuyền về chôn ở núi Chân Tiên thuộc xã Trịnh Điện, huyện An Định. Tục truyền khi quan tài được đưa đi, Trịnh Sâm trông thấy bà Nguyễn Mậu ngồi thuyền đi xuôi theo dòng sông, đến gần thuyền chở quan tài Ân vương thì không trông thấy nữa. Bèn lên bờ sông lạy để tống tiễn, rất là thương cảm.[12] Đến năm 1783 đời chúa Trịnh Tông thì phần mộ của Trịnh Doanh và bà Chính phi được dời sang xã Kim Thành cùng huyện.[2] Đánh giáSách Khâm định Việt sử thông giám cương mục của nhà Nguyễn có dẫn lời phê của vua Tự Đức trách Nguyễn thị đã không bảo vệ cho con rể mình là Thái tử Vĩ sau khi ông bị Trịnh Sâm hãm hại[13]
Xét thấy Tự Đức đã nhầm lẫn bà Chính phi Nguyễn Thị Ngọc Vinh với bà Thứ phi Nguyễn Đình Thị Diễm (mẹ đẻ của Trịnh Sâm) vì 2 bà cùng mang họ Nguyễn. Bà Thứ phi (thời Trịnh Sâm lên ngôi thì tôn làm Thái phi) là người ủng hộ phế truất Thái tử Vỹ và đưa Hoàng tử thứ 5 là Duy Cận lên làm Thái tử; trong khi bà Vinh đã chết trước đó tận 5 năm thì làm sao có thể can ngăn Trịnh Sâm được nữa. Chúa Trịnh Doanh có viết bài thơ dành tặng cho Chính cung, trích trong phần Nhàn gia chi tắc của quyển Càn Nguyên ngự chế thi tập. Mộ phầnHiện nay mộ phần của Nghị Tổ Ân vương Trịnh Doanh và Chính phi họ Nguyễn Mậu (cách mộ Chúa khoảng 200 mét) vẫn còn tại Làng Vàng, xã Yên Thịnh, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa. Cho đến trước năm 2018, do những tàn phá của thời gian và hoàn cảnh thiếu chăm sóc đã khiến phần mộ của hai vị xuống cấp nghiêm trọng. Để ghi nhớ công lao to lớn của chúa Trịnh Doanh đối với đất nước, vào năm 2018, lãnh đạo Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, huyện Yên Định cùng Hội đồng họ Trịnh Việt Nam và cùng đông đảo nhân địa phương đã tiến hành xây dựng lại khu lăng mộ được khang trang hơn. Công trình được nghiên cứu thiết kế quy hoạch trên khu đất có diện tích rộng gần 4,0 ha; với 10 hạng mục công trình kiến trúc gồm: phần mộ của Trịnh Doanh, phần mộ của Chính phi Nguyễn Mậu, nhà thờ, nhà khách, nhà trưng bày, tam quan, hồ bán nguyệt, khuôn viên cây cảnh, cây xanh bóng mát, đường giao thông, đường dạo và đèn cao áp chiếu sáng...[14] Giai đoạn 1 của dự án được khởi công ngày 15 tháng 9 năm 2018 và đã khánh thành ngày 22 tháng 3 năm 2019.[15] Tham khảoDanh mục nguồn
Wikisource tiếng Việt có toàn văn tác phẩm về:
Ghi chú
Chú thích nguồn
|