Thuật ngữ "Malayic" lần đầu tiên được đặt ra bởi Dyen (1965) trong phân loại từ vựng của ông về các ngôn ngữ Nam Đảo. "Malayic hesion" của Dyen có phạm vi rộng hơn so với nhóm ngôn ngữ Mã Lai hiện được chấp nhận, bao gồm cả tiếng Aceh, tiếng Lampung và tiếng Madura. Nothofer (1988) thu hẹp phạm vi của nhóm Mã Lai, nhưng đưa các ngôn ngữ phi Mã Lai là tiếng Rejang và tiếng Embaloh vào:
Rejang
Embaloh
Salako
Iban-Mã Lai
Iban
Mã Lai
Phạm vi hiện tại của phân nhóm Mã Lai hiện được các chuyên gia trong lĩnh vực này chấp nhận rộng rãi, do K.A. Adelaar đề xuất (1992, 1993), dựa trên bằng chứng âm vị học, hình thái học và từ vựng.
Theo Tadmor (2002), Anderbeck (2012) phân biệt giữa tiếng Mã Lai và nhóm ngôn ngữ Mã Lai khi thảo luận về các phương ngữ của các bộ lạc biển ở quần đảo Riau. Ông tạm phân loại tất cả ngôn ngữ nhóm Mã Lai vào nhánh "Mã Lai", ngoại trừ tiếng Iban, Kendaya/Selak, Keninjal, Mã Lai Dayak (hay "Dayak Malay") và "các dạng ngôn ngữ khác biệt" như tiếng Urak Lawoi' và tiếng Duano.[4][a]
Iban
Kendaya/Selako
Keninjal
Dayak Malay
Urak Lawoi '
Duano
Mã Lai (bao gồm tất cả các phương ngữ Mã Lai khác)
Phân loại của Anderbeck đã được chấp nhận trong Ethnologue ấn bản thứ 17, ngoại trừ tiếng Duano được Ethnologue coi là một trong những ngôn ngữ "Mã Lai".[b]
Smith (2017)
Trong bài viết về các ngôn ngữ của Borneo, Smith (2017) cung cấp bằng chứng về một phân nhóm bao gồm các khẩu ngữ Mã Lai ở miền tây Borneo và miền nam Sumatra, mà ông gán cho cái tên "Mã Lai Borneo Tây"[6] Tuy nhiên, ông giữ khẩu ngữ Mã Lai khác ở tình trạng không phân loại.
Omar & Yahaya (2018) lập luận về việc đưa các dạng ngôn ngữ Mã Lai mà Orang Asli (thường bị gán cho tên gọi sai lầm là "người Mã Lai nguyên thủy") nói (ngoại trừ tiếng Duano)[7] vào chung nhóm với tiếng Mã Lai chuẩn,[d]
Mối quan hệ ngoại tại
Việc đưa các ngôn ngữ Mã Lai vào ngữ tộc Mã Lai-Đa Đảo là không phải bàn cãi, và có sự đồng thuận chung rằng nhóm ngôn ngữ Chăm có liên quan chặt chẽ với nhóm ngôn ngữ Mã Lai. Các mối liên hệ rộng hơn của nhóm ngôn ngữ Mã Lai còn đang gây tranh cãi. Có hai đề xuất chính: Jamaar (2005) đặt nhóm Mã Lai trong phân nhóm Mã Lai-Sumbawa, bao gồm các ngôn ngữ sau:[8]
Giả thuyết Mã Lai-Sumbawa chủ yếu dựa trên bằng chứng âm vị học với chỉ một vài từ vựng đổi mới, trong khi giả thuyết Đại Bắc Borneo dựa trên một lượng lớn bằng chứng từ vựng.
Chú thích
^As with Adelaar, Anderbeck reckons the difficulty in assigning absolute subgrouping within Malayic subfamily, and suggests an alternative approach which is "to dissolve the Malay node and keep everything in the Malayic group".
^This classification is still in use in the current 22th edition (2019).[5]
^Alongside other various South Sumatran isolects which exhibit the *-R > *-ʔ innovation in a specific set of lexemes.
^Nordhoff, Sebastian; Hammarström, Harald; Forkel, Robert; Haspelmath, Martin biên tập (2013). “Malayic”. Glottolog. Leipzig: Max Planck Institute for Evolutionary Anthropology.
Adelaar, K. Alexander (1992). Proto-Malayic: The Reconstruction of its Phonology and Parts of its Lexicon and Morphology. Pacific Linguistics, Series C, no. 119. Canberra: Dept. of Linguistics, Research School of Pacific Studies, the Australian National University.
Adelaar, K. Alexander (1993). “The Internal Classification of the Malayic Subgroup”. Bulletin of the School of Oriental and African Studies. University of London. 56 (3): 566–581. doi:10.1017/s0041977x00007710. JSTOR620695.
Eberhard, David M.; Simons, Gary F.; Fennig, Charles D. biên tập (2019). “Malayic”. Ethnologue: Languages of the World (ấn bản thứ 22). Dallas, Texas: SIL International.
Nothofer, Bernd. 1975. The reconstruction of Proto-Malayo-Javanic. (Verhandelingen van het KITLV, 73.) The Hague: Nijhoff.
Nothofer, Bernd (1988). “A discussion of two Austronesian subgroups: Proto-Malay and Proto-Malayic”. Trong Mohd. Thani Ahmad; Zaini Mohamed Zain (biên tập). Rekonstruksi dan cabang-cabang Bahasa Melayu induk. Siri monograf sejarah bahasa Melayu. Kuala Lumpur: Dewan Bahasa dan Pustaka. tr. 34–58.
Ross, Malcolm D. (2004). “Notes on the prehistory and internal subgrouping of Malayic”. Trong John Bowden; Nikolaus Himmelmann (biên tập). Papers in Austronesian subgrouping and dialectology. Canberra: Research School of Pacific and Asian Studies, Australian National University. tr. 97–109.
Tadmor, Uri (2002). Language contact and the homeland of Malay. The Sixth International Symposium of Malay/Indonesian Linguistics (ISMIL 6). Bintan Island, 3-ngày 5 tháng 8 năm 2002.Quản lý CS1: địa điểm (liên kết)