Quân đoàn 1, Quân đội nhân dân Việt Nam
Quân đoàn 1, còn có tên hiệu là Binh đoàn Quyết thắng[2], từng là một quân đoàn của Quân đội nhân dân Việt Nam từ tháng 10 năm 1973 đến tháng 12 năm 2023. Đây là đơn vị cấp quân đoàn thực thụ đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam, được thành lập ngày 24 tháng 10 năm 1973 tại Ninh Bình. Vào cuối Chiến dịch Hồ Chí Minh, Quân đoàn 1 là đơn vị đánh chiếm Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa, góp phần làm nên Sự kiện 30 tháng 4 năm 1975.[3][4] Cuối năm 2023, Quân đoàn 1 và Quân đoàn 2 hợp lại thành Quân đoàn 12. Lịch sửNăm 1972, sau đợt tập kích đường không trong Chiến dịch Linebacker II, Hoa Kỳ phải ký Hiệp định Paris 1973, theo đó năm 1973 Hoa Kỳ phải rút toàn bộ quân đội ở miền Nam Việt Nam về nước. Cùng lúc đó, tình hình quân sự tại Quân khu 4 của Quân đội nhân dân Việt Nam cũng đang bất lợi. Quân ủy Trung ương Việt Nam điều động một vài sư đoàn đang bị tổn thất nặng rút về phía Bắc để củng cố. Tháng 10 năm 1973 Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng đề nghị Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã phê chuẩn việc thành lập các quân đoàn chủ lực. Theo đó, ngày 24 tháng 10 năm 1973, tướng Võ Nguyên Giáp – Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Quân ủy Trung ương, Phó Thủ tướng Chính phủ kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam ký quyết định số 142/QĐ–QP thành lập Quân đoàn 1 đóng quân trên địa bàn thị trấn Tam Điệp, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình[5]. Ban chấp hành Đảng bộ gồm 7 ủy viên, do Lê Quang Hoà làm bí thư, Lê Trọng Tấn làm tư lệnh quân đoàn, phó bí thư và Hoàng Minh Thi ủy viên thường vụ. Quá trình phát triểnTheo quyết định của Bộ Quốc phòng, cơ cấu tổ chức của Quân đoàn gồm: Bộ Tư lệnh Quân đoàn. Ba cơ quan quân đoàn: Bộ Tham mưu, Cục Chính trị, Cục Hậu cần. Các đơn vị khi thành lập: Sư đoàn 308 Bộ binh, Sư đoàn 312 Bộ binh, Sư đoàn 320B Bộ binh (sau đổi thành Sư đoàn 390), Sư đoàn 367 Phòng không, Lữ đoàn 202 Tăng–Thiết giáp, Lữ đoàn 45 Pháo binh, Lữ đoàn 299 Công binh và Trung đoàn 140 Thông tin.[5] Ngày 15 tháng 3 năm 1975, Quân đoàn 1 được lệnh di chuyển vào miền Nam Việt Nam sẵn sàng tham chiến. Trừ sư 308 ở lại miền Bắc Việt Nam làm nhiệm vụ phòng thủ phía bắc, toàn bộ quân đoàn vượt 1.789 km từ Bắc vào Nam theo đường Trường Sơn: tuyến Quốc lộ 1 – Đường 9 – qua Lao Bảo sang lãnh thổ Lào – về Kon Tum theo đường 14 qua Buôn Mê Thuột, đến ngày 14 tháng 4 năm 1975 vào đến Đồng Xoài – Phước Long chuẩn bị cho trận đánh cuối cùng. Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, Quân đoàn 1 nhận nhiệm vụ từ bàn đạp Sông Bé, tấn công từ phía Bắc Sài Gòn, bao vây tiêu diệt đối phương ở Phú Lợi, Bến Cát, Bình Dương, Lai Khê, Tân Uyên; ngăn chặn Sư đoàn 5 Bộ binh Quân lực Việt Nam Cộng hòa rút về nội đô và vô hiệu hóa đơn vị này; tấn công đánh chiếm Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa, các bộ tư lệnh binh chủng ở quận Gò Vấp, tỉnh Gia Định; tổ chức một lực lượng tấn công hợp điểm với các quân đoàn khác tại Dinh Độc Lập[6][7] Do phải hành quân gấp từ miền Bắc vào bằng mọi phương tiện thủy, bộ và đường không. Quân đoàn 1 bắt đầu tấn công chậm một ngày so với các đơn vị khác.[8] Ngày 29/11/2023, tại Ninh Bình, Bộ Quốc phòng tổ chức hội nghị tiếp nhận nguyên trạng các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đoàn 1, Quân đoàn 2 và Phân viện 5 (Bệnh viện 7, Quân khu 3) về Quân đoàn 12. Lãnh đạo hiện nay(Đã kết thúc hoạt động)
Tổ chức bộ máyCơ quan trực thuộc
Đơn vị trực thuộc Quân đoàn
Trước đây, trong biên chế của Quân đoàn 1 còn có Lữ đoàn tăng - thiết giáp 202. Nhưng từ ngày 31/7/2023, lữ đoàn này được điều chuyển nguyên trạng về Binh chủng Tăng - Thiết giáp[19]). Đơn vị trực thuộc Cục
Tổ chức chungThành tích
Chỉ huy, lãnh đạo qua các thời kỳTư lệnh
Chính ủy, Phó tư lệnh Chính trị
Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng
Các tướng lĩnh khác
Chú thích
Liên kết ngoài
|