Tôn Văn Thông tin cá nhân Ngày sinh
6 tháng 4, 1973 (51 tuổi) Nơi sinh
Thượng Hải , Trung Quốc Chiều cao
1,62 m (5 ft 4 in) Vị trí
Tiền đạo Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp* Năm
Đội
ST
(BT ) 1989–2000
Thượng Hải
2001–2002
Atlanta Beat
33
(7) 2003
Thượng Hải SVA
2006
Thượng Hải SVA
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia Năm
Đội
ST
(BT ) 1990–2006
Trung Quốc [ 1]
152
(106[ 2] )
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia
Tôn Văn (giản thể : 孙雯 ; phồn thể : 孫雯 ; sinh ngày 6 tháng 4 năm 1973 tại Thượng Hải ) là một cựu cầu thủ bóng đá Trung Quốc. Cô từng là thủ quân của đội tuyển bóng đá nữ quốc gia Trung Quốc và Atlanta Beat của Women's United Soccer Association (WUSA).
Vào năm 2000, cô giành giải Cầu thủ nữ xuất sắc nhất thế kỷ của FIFA cùng với Michelle Akers . Tôn Văn cũng giành danh hiệu Quả bóng vàng và Chiếc giày vàng tại Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 1999 .
Sự nghiệp thi đấu
Câu lạc bộ
Atlanta Beat
Tôn Văn thi đấu cho Atlanta Beat của giải Women's United Soccer Association trong khoảng thời gian 2001-2002. Cô là người đầu tiên được chọn trong WUSA Draft mùa đầu tiên, tuy nhiên chấn thương khiến cô chỉ thi đấu cho Beat trong 13 trận (5 trận ra sân từ đầu). Trong trận bán kết với Philadelphia Charge , Tôn Văn thực hiện thành công quả phạt đền và kiến tạo cho Cindy Parlow san bằng tỉ số. Beat sau đó giành chiến thắng 3-2. Cô cũng là tác giải bàn thắng gỡ hòa 3-3 của Beat trước San Jose CyberRays tại Founders Cup. Tuy nhiên CyberRays là đội vô địch sau khi chiến thắng trong loạt luân lưu.[ 3] [ 4]
Trong mùa giải 2002 Tôn Văn thi đấu 18 trận và ghi bốn bàn giúp Beat lọt vào vòng playoff, tuy nhiên Beat bị loại tại bán kết.[ 5]
Tôn rời WUSA vào tháng 1 năm 2003 và trở lại Trung Quốc để chuẩn bị cho Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2003 .[ 6]
Quốc tế
Tôn Văn thi đấu cho đội tuyển Trung Quốc từ năm 17 tuổi và có mặt tại bốn World Cup .[ 7]
Cô cùng đội tuyển Trung Quốc vô địch Asian Cup vào các năm 1991, 1993, 1995 và 1997.[ 8]
Cô giành huy chương bạc Thế vận hội Mùa hè 1996 tại Athens, Georgia . Tại Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 1999 , Tôn ghi được bảy bàn và nhận danh hiệu Quả bóng vàng và Chiếc giày vàng.
Cô trở lại đội tuyển vào tháng 12 năm 2005 sau hai năm vắng bóng[ 9] trước khi chính thức từ giã đội tuyển vào năm 2006.
Các trận đấu và bàn thắng tại World Cup và Thế vận hội
Tôn Văn thi đấu 28 trận, ghi 16 bàn trong bốn kỳ World Cup và hai Thế vận hội :
Chú giải (mở rộng để xem chú thích về “bàn thắng world cup và thế vận hội”)
Địa điểm
Địa điểm nơi sự kiện diễn ra
Đội hình
Ra sân từ đầu – thi đấu cả trậnvào sân phút (ra sân cầu thủ ) – vào sân ở phút và cầu thủ là người bị thay ra
ra sân phút (ra sân cầu thủ ) – ra sân ở phút và cầu thủ là người vào thay
(c ) – đội trưởng
Phút
Phút mà bàn thắng được ghi.
Kiến tạo/chuyền
Đường bóng mà cầu thủ đó kiến tạo dẫn tới bàn thắng. Cột này phụ thuộc vào nguồn thông tin.
Phạt đền hoặc pk
Bàn thắng được ghi trên chấm phạt đền . (Bàn thắng trong loạt luân lưu không được tính vào đây.)
Tỉ số
Tỉ số trận đấu sau khi bàn thắng được ghi.
Kết quả
Kết quả chung cuộc.
T – thắng
B – thua
H – hòa
(T ) – thắng luân lưu
(B ) – thua luân lưu
hp
Tỉ số sau khi hiệp phụ kết thúc
pso
Tỉ số luân lưu trong ngoặc
Màu nền cam – Thế vận hội
Màu nền xanh – World Cup
Giải thưởng
Tô Văn giành giải Chiếc giày vàng (đồng chia sẻ với Sissi của Brasil ) và Quả bóng vàng tại Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 1999 , và là cầu thủ nữ đầu tiên được đề cử cho giải cầu thủ xuất sắc nhất năm của Liên đoàn bóng đá châu Á .
Vào năm 2002, cô nhận giải FIFA Internet Award trong cuộc bầu chọn Cầu thủ nữ xuất sắc nhất thế kỷ của FIFA . Tuy vậy giải thưởng chính thuộc về Michelle Akers .[ 10]
Xem thêm
Tham khảo
Báo cáo trận đấu
Bản mẫu:Cầu thủ bóng đá nữ xuất sắc nhất châu Á