Lớp Cannon có thiết kế hầu như tương tự với lớp Buckley dẫn trước; khác biệt chủ yếu là ở hệ thống động lực Kiểu DET (diesel electric tandem). Các động cơ diesel đặt nối tiếp nhau dẫn động máy phát điện để cung cấp điện năng quay trục chân vịt cho con tàu. Động cơ diesel có ưu thế về hiệu suất sử dụng nhiên liệu, giúp cho lớp Cannon cải thiện được tầm xa hoạt động, nhưng đánh đổi lấy tốc độ chậm hơn.[4][5]
Vũ khí trang bị bao gồm ba pháo 3 in (76 mm)/50 cal trên tháp pháo nòng đơn có thể đối hạm hoặc phòng không, một khẩu đội pháo phòng không Bofors 40 mm nòng đôi và tám pháo phòng không Oerlikon 20 mm. Vũ khí chống ngầm bao gồm một dàn súng cối chống tàu ngầm Hedgehog Mk. 10 (có 24 nòng và mang theo 144 quả đạn); hai đường ray Mk. 9 và tám máy phóng K3 Mk. 6 để thả mìn sâu.[6][7] Con tàu vẫn giữ lại ba ống phóng ngư lôi Mark 15 21 inch (533 mm). Thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 15 sĩ quan và 201 thủy thủ.[6]
Breeman cùng với tàu chị em Bronstein (DE-189) tách khỏi Đội đặc nhiệm 21.16 vào ngày 23 tháng 3 và đi đến Dakar, Tây Phi vào ngày hôm sau, nơi họ chất lên tàu một lô hàng quý giá: số vàng trị giá 60 triệu Đô la thuộc sở hữu của Ngân hàng Ba Lan. Hai chiếc tàu chiến rời Dakar vào ngày 26 tháng 3 để hướng đến New York theo tuyến đường trực tiếp và an toàn nhất, đến nơi vào ngày 3 tháng 4. Sau khi được sửa chữa, Breeman lại ra khơi vào ngày 12 tháng 4 trong thành phần một đội tìm-diệt khác vốn tham gia vào lực lượng hộ tống cho Đoàn tàu UGS-39 vượt Đại Tây Dương để đi sang Bắc Phi; đoàn tàu đi đến Bizerte, Tunisia an toàn vào ngày 3 tháng 5. Nó lại hộ tống cho Đoàn tàu GUS 39 trong chặng quay trở về, về đến Norfolk vào ngày 29 tháng 5. Sau khi được bảo trì tại Xưởng hải quân New York, con tàu tiến hành huấn luyện ôn tập tại khu vực Casco Bay, Maine trong chín ngày vào giữa tháng 6.[3]
Khởi hành hướng xuống phía Nam vào ngày 21 tháng 6, Breeman gia nhập Đội đặc nhiệm 21.10, một đội tìm-diệt tàu ngầm khác được hình thành chung quanh tàu sân bay hộ tống Card (CVE-11). Đội đã tấn công một số tín hiệu sonar nghi ngờ và đã đánh chìm ít nhất một chiếc U-boat; tuy nhiên Breeman lại không trực tiếp tham gia hoạt động tác chiến nào. Nó quay trở về New York vào cuối tháng 8 để được sửa chữa, rồi hoạt động huấn luyện ôn tập tại khu vực Casco Bay vào đầu tháng 9. Nó gia nhập trở lại cùng đội tìm-diệt của Card gần Bermuda vào ngày 18 tháng 9 để tiếp tục huấn luyện, nhưng không lâu sau đó bị hư hại chân vịt và buộc phải quay trở về Xưởng hải quân New York để sửa chữa. Hoàn tất việc sửa chữa, nó lên đường vào ngày 23 tháng 10 để huấn luyện ngư lôi tại Căn cứ Tàu ngầm Hải quân New London ở New London, Connecticut và tại Casco Bay. Đến ngày 24 tháng 11, nó cùng Đội hộ tống 48 một lần nữa tham gia cùng Card để hình thành Đội đặc nhiệm 22.2. Trong khoảng một tháng, lực lượng đã tiến hành huấn luyện chống tàu ngầm tại khu vực Bermuda, rồi nó quay trở về New York vào ngày 29 tháng 12.[3]
Gia nhập trở lại Đội đặc nhiệm 22.2 vào ngày 12 tháng 1, 1945, Breeman phục vụ trong vai trò hộ tống và canh phòng máy bay để huấn luyện chuẩn nhận phi công ngoài khơi Quonset Point, Rhode Island. Đến ngày 22 tháng 1, nó cùng Đội hộ tống 48 gia nhập cùng tàu sân bay hộ tống Bogue (CVE-9) và lên đường đi Norfolk. Vào cuối tháng 2 và đầu tháng 3, con tàu lại ra khơi cùng đội tìm-diệt hình thành chung quanh Bogue, nhưng việc truy tìm tàu U-boat đối phương hoạt động về phía Nam Iceland không đem lại kết quả; lực lượng quay trở về New York vào ngày 17 tháng 3. Sang đầu tháng 4, nó thực hành huấn luyện tại khu vực New London trong thành phần đội tìm-diệt của Card, rồi từ ngày 15 tháng 4 đến ngày 5 tháng 5, đội đặc nhiệm lại hoạt động truy lùng tàu ngầm đối phương tại vùng biển ngoài khơi Virginia. Sau đó Breeman chuyển đến khu vực Quonset Point để tiếp tục phục vụ canh phòng máy bay cho các tàu sân bay huấn luyện chuẩn nhận phi công.[3]
^Rivet, Eric; Stenzel, Michael. “Classes of Destroyer Escorts”. History of Destroyer Escorts. Destroyer Escort Historical Museum. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2021.
^Helgason, Guðmundur. “U-1059”. uboat.net. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2021.
^Lin Hong-yi (2009). “Chapter 4,1953-1960”(PDF). Blockade on Chinese mainland coast - ROC's Guanbi policy, 1949-1960 (Luận văn) (bằng tiếng Trung). National Chengchi University. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2022.