Những chiếc thuộc lớp tàu hộ tống khu trục Buckley có chiều dài chung 306 ft (93 m), mạn tàu rộng 37 ft 1 in (11,30 m) và độ sâu mớn nước khi đầy tải là 11 ft 3 in (3,43 m). Chúng có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn 1.400 tấn Anh (1.400 t); và lên đến 1.740 tấn Anh (1.770 t) khi đầy tải.[2] Hệ thống động lực bao gồm hai turbine hơi nướcGeneral Electric công suất 13.500 mã lực (10.100 kW), dẫn động hai máy phát điện công suất 9.200 kilôwatt (12.300 hp) để vận hành hai trục chân vịt; [3][4] công suất 12.000 hp (8.900 kW) cho phép đạt được tốc độ tối đa 23 kn (26 mph; 43 km/h), và có dự trữ hành trình 6.000 nmi (6.900 mi; 11.000 km) khi di chuyển ở vận tốc đường trường 12 kn (14 mph; 22 km/h).[5]
Vũ khí trang bị bao gồm ba pháo 3 in (76 mm)/50 cal trên tháp pháo nòng đơn có thể đối hạm hoặc phòng không, một khẩu đội 1,1 inch/75 caliber bốn nòng và tám pháo phòng không Oerlikon 20 mm. Vũ khí chống ngầm bao gồm một dàn súng cối chống tàu ngầm Hedgehog Mk. 10 (có 24 nòng và mang theo 144 quả đạn); hai đường ray Mk. 9 và tám máy phóng K3 Mk. 6 để thả mìn sâu.[5][6] Khác biệt đáng kể so với lớp Evarts dẫn trước là chúng có thêm ba ống phóng ngư lôi Mark 15 21 inch (533 mm). Thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 186 sĩ quan và thủy thủ.[5]
Sau một chuyến hộ tống vận tải ven biển dọc bờ Đông, George W. Ingram khởi hành từ Charleston, South Carolina vào ngày 6 tháng 11 để hộ tống cho Đoàn tàu CK-4 đi sang Plymouth, Anh. Đến nơi vào ngày 5 tháng 12, nó lên đường một tuần sau đó cho hành trình quay trở về Hoa Kỳ, hộ tống tàu bè và tàu đổ bộ bị hư hại sau cuộc Đổ bộ Normandy. Tại vị trí về phía Đông Bắc Azores vào ngày 20 tháng 12, đoàn tàu bị tàu ngầmU-boatĐứcU-870 tấn công, đánh chìm LST-359 và gây hư hại cho tàu chị em Fogg (DE-57). Phản ứng nhanh chóng và hiệu quả của lực lượng hộ tống đã ngăn chặn được chiếc U-boat, không để thiệt hại thêm, và George W. Ingram về đến New York vào ngày 12 tháng 1, 1945.[1]
Đi ngang qua Eniwetok và Okinawa, George W. Ingram đi đến Jinsen vào ngày 8 tháng 9, nơi nó hỗ trợ cho việc đổ bộ lực lượng chiếm đóng Hoa Kỳ lên phía Nam bán đảo Triều Tiên. Nó tiếp tục đi đến Đường Cô thuộc Thiên Tân, Trung Quốc vào ngày 26 tháng 9, nơi Đội UDT-26 hoạt động rà phá thủy lôi và chướng ngại vật ở vùng cửa sông Hải Hà từ ngày 29 tháng 9 đến ngày 1 tháng 10, dọn đường cho cuộc đổ bộ của lực lượng Thủy quân Lục chiến. Sau đó nó tiếp tục hỗ trợ cho việc đổ bộ lực lượng Hoa Kỳ lên Yên Đài và Thanh Đảo trước khi lên đường vào ngày 17 tháng 10 để quay trở về Hoa Kỳ. Đi ngang qua Okinawa, Eniwetok và Trân Châu Cảng để quay về vùng bờ Tây, nó về đến San Diego vào ngày 11 tháng 11.[1]