Parrott được đặt lườn vào ngày 23 tháng 7 năm 1919 tại xưởng tàu của hãng William Cramp and Sons ở Philadelphia. Nó được hạ thủy vào ngày 25 tháng 11 năm 1919, được đỡ đầu bởi cô Julia B. Parrott; và được đưa ra hoạt động vào ngày 11 tháng 5 năm 1920 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân W. C. Wickham.
Đến ngày 12 tháng 6, Parrott lên đường từ Newport, Rhode Island cùng với đội của nó, để trình diện và hoạt động dưới quyền Tư lệnh Lực lượng Hải quân Hoa Kỳ ở vùng biển Thổ Nhĩ Kỳ tại Constantinople, nhằm trợ giúp các tổ chức nhân đạo trong việc cứu giúp người tị nạn và bảo vệ tính mạng và tài sản của công dân Hoa Kỳ. Nó đã phục vụ như tàu liên lạc và tàu trạm tại Hắc Hải, biển Aegean và khu vực Đông Địa Trung Hải. Từ ngày 13 tháng 9 đến ngày 25 tháng 10, nó đã giúp di tản người tị nạn sau trận hỏa hoạn kinh hoàng tại Smyrna, và hộ tống các con tàu được các quốc gia khác gửi đến để trợ giúp những người yêu cầu được bảo vệ. Từ ngày 6 tháng 7 đến ngày 24 tháng 8 năm 1923, chiếc tàu khu trục thực hiện chuyến viếng thăm đến Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, Romania, Bulgaria và Nga, gặp gỡ các quan chức dân sự và phô trương lực lượng. Trong năm tiếp theo, nó thực hiện chuyến viếng thăm tương tự đến Bizerte, Tunis, Livorno, Genoa, Patmos, Villefranche-sur-Mer, Cagliari và Sardinia, rồi quay trở về New York vào tháng 7.
Sau khi hoạt động ngoài khơi Manila từ ngày 19 tháng 10 năm 1925 đến ngày 15 tháng 3 năm 1926, Parrott trình diện để phục vụ cùng Tư lệnh Lực lượng Tuần tra Nam Trung Quốc tại Sán Đầu cho đến ngày 14 tháng 6. Vào lúc này, ảnh hưởng của cuộc cách mạng tại Trung Quốc gây ra tình trạng căng thẳng, buộc phải tập trung hầu như toàn bộ Hạm đội Á Châu tại vùng biển Trung Quốc. Chiếc tàu khu trục làm nhiệm vụ tuần tra và bảo vệ cho quyền lợi của Hoa Kỳ và các nước trung lập. Nó được thay phiên vào ngày 25 tháng 10 năm 1927, và lên đường đi ngang qua Hong Kong, Bangkok và Sài Gòn để đi Manila, đến nơi vào ngày 18 tháng 11.
Trong năm 1928, Parrott thực hiện nhiều chuyến viếng thăm đến các cảng Philippine ít được các tàu Hoa Kỳ ghé đến. Từ năm 1928 đến năm 1934, nó tiếp tục nhiệm vụ tuần tra của Hạm đội Á Châu, đặt căn cứ tại Manila. Vào năm 1935, nó đi đến Đông Dương thuộc Pháp để thu thập thông tin thủy văn tại khu vực chung quanh Sài Gòn. Nó tiếp nối các cuộc Tuần tra Trung lập vào năm 1936, và đến năm 1940 đã phục vụ như là tàu trạm tại Hạ Môn và Sán Đầu, Trung Quốc. Từ ngày 7 tháng 7 đến ngày 4 tháng 10, nó tuần tra tại vùng biển phía Bắc Trung Quốc, đặt căn cứ tại Thanh Đảo, và đã viếng thăm các cảng phía Bắc Trung Quốc khác trước khi quay về Manila vào ngày 11 tháng 10.
Trong đêm 23 tháng 1, Parrott cùng với các tàu khu trục John D. Ford, Pope và Paul Jones đã tiến vào cảng Balikpapan, Borneo, nơi có 16 tàu vận tải và ba tàu phóng lôi 750 tấn Nhật thả neo, được bảo vệ bởi một hải đội tàu khu trục. Trong trận Balikpapan diễn ra sau đó, các tàu Đồng Minh đã bắn nhiều loạt ngư lôi và đánh đắm bốn tàu vận tải và một tàu phóng lôi, trong khi các tàu khu trục Nhật tìm kiếm vô vọng tàu ngầm đối phương bên trong eo biển.
Parrott quay trở lại Surabaya vào ngày 25 tháng 1, và lên đường năm ngày sau đó trong thành phần hộ tống cho hai tàu Hà Lan đi xa đến tận eo biển Lombok. Sau đó nó càn quét qua biển Hoa Nam cùng với lực lượng kết hợp ABDA, chống trả ba đợt không kích của đối phương trên đường đi vào ngày 15 tháng 2, khi lực lượng Đồng Minh tìm cách đánh chặn và ngăn ngừa một cuộc đổ bộ lên bờ biển phía Đông của Sumatra. Nó đi đến Surabaya để tiếp nhiên liệu vào ngày 19 tháng 2, đánh trả không kích của máy bay đối phương tại đây trước khi lên đường cùng các tàu khu trục khác cho một cuộc tấn công ban đêm nhắm vào lực lượng Nhật Nản tại Bali. Bắt gặp hai tàu khu trục và một tàu vận chuyển Nhật Bản ngay sau nữa đêm 19-20 tháng 2, trong trận chiến diễn ra sau đó, tàu khu trục Hà Lan HNLMS Piet Hein bị đánh chìm trong khi tàu khu trục Nhật Michishio bị hư hại nặng. Parrott bị va phải một dãi đá ngầm ngoài khơi Bali nhưng thoát ra được và rút lui cùng với phần còn lại của lực lượng về Surabaya.
Parrott quay trở về Hoa Kỳ để sửa chữa, rời xưởng tàu vào tháng 7 để thực hiện chuyến đầu tiên trong số tám chuyến đi hộ tống giữa San Francisco và Trân Châu Cảng. Vào ngày 21 tháng 5 năm 1943, nó khởi hành đi New York, đến nơi vào ngày 12 tháng 6 để nhận nhiệm vụ hộ tống vận tải vượt Đại Tây Dương. Nó hoàn tất một chuyến đi hộ tống trước khi cùng Paul Jones và Belknap gia nhập một đội tìm-diệt tàu ngầm do tàu sân bay hộ tốngCroatan dẫn đầu. Nó hoạt động cùng đội này cho đến ngày 15 tháng 10, khi được chuyển sang một đội tìm-diệt tàu ngầm khác hình thành chung quanh tàu sân bay hộ tống Block Island.
Parrott tham gia vào việc đánh chìm tàu ngầmU-boatĐứcU-220 vào ngày 28 tháng 10, nhưng chiến công được ghi nhận dành cho những máy bay của Block Island. Vào tháng 3 năm 1944, Parrott đi đến Norfolk, Virginia nhận nhiệm vụ hộ tống vận tải. Trong thành phần hộ tống cho Đoàn tàu UGS–35, nó đi đến Casablanca vào ngày 26 tháng 3, rồi bắn phá khu vực bờ biển Maroc phía Nam mũi Spartel vào ngày 27 tháng 3 trước khi hộ tống cho Đoàn tàu GUS–34 quay trở lại Boston, đến nơi vào ngày 15 tháng 4.
^Trong khi nguồn của DANFS và Gill sử dụng Seawitch, mọi nguồn khác cũng như hồ sơ đăng kiểm của Lloyd đều nêu tên con tàu là Sea Witch. Nó là một tàu chở hàng kiểu C2 đóng tại Tampa Shipbuilding năm 1940.
Craven, Wesley Frank; Cate, James Lea (1948). Plans and early operations, January 1939 to August 1942. The Army Air Forces In World War II. One. Washington, D.C.: Office of Air Force History. ISBN091279903X. LCCN83017288.
Gill, G. Hermon (1957). Royal Australian Navy 1939-1942. Australia in the War of 1939–1945. Series 2 – Navy. 1. Canberra: Australian War Memorial. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 5 năm 2009. Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2014.
Masterson, Dr. James R. (1949). U. S. Army Transportation In The Southwest Pacific Area 1941-1947. Washington, D. C.: Transportation Unit, Historical Division, Special Staff, U. S. Army.