Bài viết này có chứa ký tự ngữ âm IPA. Nếu không thích hợp hỗ trợ dựng hình, bạn có thể sẽ nhìn thấy dấu chấm hỏi, hộp, hoặc ký hiệu khác thay vì kí tự Unicode. Để biết hướng dẫn giới thiệu về các ký hiệu IPA, xem Trợ giúp:IPA.
Tiếng Khanty chia ra làm nhiều phương ngữ. Cụm tây gồm phương ngư Obdoria, Ob, Irtysh. Cụm tây gồm Surgut và Vakh-Vasyugan, mà lại ra làm các phương ngữ nhỏ hơn. Phương ngữ khác biệt nhau đáng kể về ngữ học, hình thái học, từ vựng đến nỗi mà ba "phương ngữ" chính (bắc, nam, đông) không thông hiểu lẫn nhau.[2] Do đó, các phương ngữ tiếng Khanty có thể được coi là ngôn ngữ gần gũi nhưng riêng biệt.
Phương ngữ
Tiếng Khanty tách ra làm ba nhóm phương ngữ chính, hầu như không thông hiểu nhau, do vậy nên xem là ba ngôn ngữ: Bắc, Nam, Đông. Mỗi phương ngữ con được đặt theo tên dòng sông nơi nó được nói. Tiếng Khanty Nam hiện là tử ngữ.[3][4]
Phương ngữ Salym có thể coi là chuyển giao giữa Đông và Nam. Phương ngữ Atlym và Nizyam cũng mang đặc điểm miền nam.
Tiếng Khanty Nam và Bắc chia sẻ nhiều biến đổi âm vị, nên có thể gộp thành Khanty Tây: *üü, *öö, *ɔ̈ɔ̈ > *ii, *ee, *ää (nhưng *ɔ̈ɔ̈ > *oo gần *k, *ŋ),[6] sự mất đi hài hoà nguyên âm, xát hoá *k thành /x/ khi ở gần nguyên âm sau,[7] sự mất đi âm vị *ɣ.[8]
Nguồn tham khảo
^Nordhoff, Sebastian; Hammarström, Harald; Forkel, Robert; Haspelmath, Martin biên tập (2013). “Khantyic”. Glottolog. Leipzig: Max Planck Institute for Evolutionary Anthropology.
^Gulya 1966, tr. 5-6.Lỗi sfn: không có mục tiêu: CITEREFGulya1966 (trợ giúp)
^Honti 1998, tr. 328-329.Lỗi sfn: không có mục tiêu: CITEREFHonti1998 (trợ giúp)
^Honti, László (1981), “Ostjakin kielen itämurteiden luokittelu”, Congressus Quintus Internationalis Fenno-Ugristarum, Turku 20.-27. VIII. 1980, Turku: Suomen kielen seura, tr. 95–100
^Honti 1998, tr. 336.Lỗi sfn: không có mục tiêu: CITEREFHonti1998 (trợ giúp)