Chỉ có một cụm từ trong tiếng mẹ đẻ của người Yết được biết đến, do tu sĩ Phật giáo và nhà truyền đạo người Quy TừPhật Đồ Trừng cung cấp. Cụm từ này được ghi trong Tấn thư dưới dạng 秀支替戾岡,僕穀劬禿當 và được cho là có liên quan đến cuộc chiến của Thạch Lặc chống lại Lưu Diệu vào năm 328.[5] Được được dịch sang tiếng Trung Quốc như sau:
Cụm từ này đã được phân tích trong một số ấn phẩm. Shiratori (1900),[6]Ramstedt (1922),[7]Bazin (1948),[8] von Gabain (1950),[9] Shervashidze (1986),[10] và Shimunek (2015)[2]:149 cho rằng nó thuộc ngữ hệ Turk, đồng thời đưa ra cách phiên âm và bản dịch của họ:
Ramstedt
Bazin
von Gabain
Shervashidze
Shimunek
Sükä talıqın
bügüg tutun!
Süg tägti ıdqaŋ
boquγıγ tutqaŋ!
Särig tılıtqan
buγuγ kötürkän
Sükâ tol'iqtin
buγuγ qodigo(d)tin
su-Ø kete-r erkan
boklug-gu tukta-ŋ
Đi đánh trận
[và] bắt bügü!
Đưa quân đi tấn công,
và bắt chỉ huy!
Ngươi sẽ đem quân ra,
ngươi sẽ bắt con hươu
Ngươi đi đến đội quân
Phế truất buγuγ
Khi quân xuất trận,
hãy bắt Boklug!
Thuộc ngữ hệ Enisei
Edwin G. Pulleyblank (1963) lập luận rằng cách diễn giải bằng tiếng Turk không thực sự thành công vì chúng mâu thuẫn với các giá trị ngữ âm của văn bản tiếng Trung và bản dịch tiếng Trung. Thay vào đó, ông đề xuất mối liên hệ với các ngôn ngữ Enisei, cũng như nhận xét về đuôi -ŋ của động từ Enisei, đặc biệt phổ biến ở tiếng Kott.[1]:264
Alexander Vovin (2000) đã đưa ra bản dịch sau đây dựa trên ngữ hệ Enisei, chứng thực những phát hiện của Pulleyblank.[11] Vovin (2000) ngụ ý mối liên hệ với nhánh Nam Enisei, và đã nhận được sự đồng tình từ những nhà Enisei học khác.
suke
quân
t-i-r-ek-ang
PV-CM-PERF-đi ra-3P
bok-kok
bok-kok
k-o-t-o-kt-ang
PV-?-OBJ-CM-catch-3P
suke t-i-r-ek-ang bok-kok k-o-t-o-kt-ang
quân {PV-CM-PERF-đi ra-3P} bok-kok PV-?-OBJ-CM-catch-3P
Quân đã ra trận. [Họ] sẽ bắt Bokkok.
Có thể thấy đuôi động từ -ŋ trong tiếng Yết, là một đuôi động từ phổ biến trong các ngôn ngữ Enisei, đặc biệt là tiếng Kott. Dạng cùng nguồn gốc của từ tiếng Yết "kot-o-kt-aŋ" "họ sẽ bắt" trong tiếng Ket là "d-kas-a-qos-n", thể hiện đặc điểm của tiếng Pumpokol trong đó âm /t/ tương ứng với âm /s/ trong tiếng Ket, do đó tiếng Yết được cho là có quan hệ gần gũi với tiếng Pumpokol. Từ "kel" "chiến đấu" trong tiếng Arin một phần trùng khớp với âm tiết thứ hai của *śuke "quân", tuy nhiên mối liên hệ này không rõ ràng và Vovin cho rằng đây là một từ mượn, vì nếu những người nói tiếng Pumpokol trở thành một phần của Hung Nô, từ chỉ quân đội có thể đã được vay mượn.[3]
Vovin và cộng sự (2016) sửa lại bản dịch trên, cũng như sắp xếp các động từ theo mẫu động từ Ket và chỉ trích cách Shimunek và cộng sự phân tích cụm từ.[3]
śuke
quân
t-il-ek-ang
out-PAST-go-3ANIM.PL.SBJ
bok-kok
?
got-o-kt-aŋ
bàn chân(?)-3MASC.SG.OBJ-lấy-3ANIM.PL.SBJ
śuke t-il-ek-ang bok-kok got-o-kt-aŋ
quân {out-PAST-go-3ANIM.PL.SBJ} ? {bàn chân(?)-3MASC.SG.OBJ-lấy-3ANIM.PL.SBJ}
^Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên :2
^Shiratori, Kurakichi, Uber die Sprache des Hiung-nu Stammes und der Tung-hu-Stdmme, Tokyo, 1900
^Ramstedt G.J., "Zur Frage nach der Stellung des Tschuwassischen" (On the question of the position of the Chuvash), Journal de la Société finno-ougrienne 38, 1922, pp. 1–34
^Bazin, Louis (1948). “Un texte proto-turc du IVe siècle: le distique hiong-nou du "Tsin-chou"”. Oriens. 1 (2): 208–219. doi:10.2307/1578997. JSTOR1578997.
^von Gabain, Annemarie (1950). “Louis Bazin: Un texte proto-turc du IVe siècle: le distique hiong-nou du "Tsin-chou" (Besprechung)”. Der Islam. 29: 244–246.
^Shervashidze I.N. "Verb forms in the language of the Turkic runiform inscriptions", Tbilisi, 1986, pp. 3–9